1) Bình
đẳng giới là gì?
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò
ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát
triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự
phát triển đó.
Bình đẳng giới là bình đẳng về pháp luật, về
cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm bình đẳng trong việc quyết định các vấn
đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội.
Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan
trọng trong mọi thời đại, đặc biệt là trong điều kiện hiện đại hóa, công nghiệp
hóa hiện nay. Bình đẳng giới trong gia đình là môi trường lành mạnh để con
người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình đẳng, được giáo dục về quyền bình
đẳng, được hành động bình đẳng; là tiền đề quan trọng cho sự thành công trong
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em; góp phần tăng chất lượng cuộc sống
của các thành viên gia đình, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước; góp phần giải
phóng phụ nữ và góp phần xây dựng thể chế gia đình bền vững.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện khung luật
pháp, chính sách về quyền bình đẳng trên lĩnh vực bình đẳng giới như: Luật hôn
nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình…mà
trọng tâm là Luật bình đẳng giới và thông qua các công ước quốc tế như công ước
về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, công ước Liên hiệp quốc về
quyền trẻ em… nhờ đó mà phụ nữ và trẻ em đều được bảo vệ.
Tuy nhiên, định kiến giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại khá
phổ biến ở trong gia đình và một bộ phận dân cư trong xã hội. Trên thực tế,
thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường dài hơn nam giới, nam giới
vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là
người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành
viên trong gia đình thường được coi là “thiên chức” của phụ nữ.
Hiện tượng bất bình đẳng vẫn phổ biến ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc phụ nữ là lao động chính song lại không có tiếng nói trong gia
đình. Những người đàn ông thường giành thời gian cho việc làng, việc nước, họ
hàng, rồi rượu chè, các tệ nạn xã hội… nên gánh nặng gia đình cũng như cường độ
lao động và sự vất vả đều dồn lên đôi vai người phụ nữ.
2) Giáo dục giới tính
a)
Giới tính là gì?
Có thể hiểu một cách
khái quát, ngắn gọn giới tính là tất cả những đặc điểm riêng biệt tạo nên sự
khác nhau giữa nam và nữ.
b. Nguồn gốc của giới tính:
Giới tính được quy
định từ hai nguồn gốc: nguồn gốc sinh học và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc sinh học của con người trước hết do tế bào sinh sản quy định.
- Nguồn gốc xã hội ảnh hưởng tới giới tính của con người ở nhiều mặt. Phong tục
tập quán ở từng nước đòi hỏi ở mỗi giới những phẩm chất và tác phong khác nhau
phù hợp với giới tính của mình.
Ví
dụ như xã hội Việt Nam đòi hỏi ở người con gái tính dịu dàng, hiền hậu, tính
đảm đang, biết giữ gìn phẩm hạnh, có ý tứ,…. Những người con trai phải thể hiện
tính cương quyết, thái độ đàng hoàng, đĩnh đạc. Hoặc như trong quan hệ nam nữ,
xã hội ta đòi hỏi sự cư xử đúng mực giữa nam và nữ, thể hiện trong tác phong,
tư thế hàng ngày, ở một khoảng cách nhất định trong quan hệ giao tiếp giữa nam
và nữ.
c. Những biểu hiện của sự
khác biệt giới tính.
+. Những sự khác biệt
về sinh học:
- Bộ
xương của nữ thường nhỏ hơn nam, xương chậu của nữ thường rộng và thấp, xương
chân tay ngắn hơn.
- Lượng
mỡ trong cơ thể nữ nhiều hơn nam nhất là ở vùng mông, ngực, bụng
- Cấu
tạo và chức năng của hệ sinh dục của nam và nữ hoàn toàn khác nhau. Đây là sự
khác biệt quan trọng nhất, quy định sự tồn tại của hai giới về mặt sinh học.
+. Những sự khác biệt
về tâm lý:
- Về hứng thú:
Học sinh trai thích học tập thể dục, thể thao hơn còn học sinh gái thường thích
những trò chơi nhẹ nhàng hơn, không ồn ào.
- Về tình cảm:
Phụ nữ dễ xúc động hơn nam, còn nam giới dễ chế ngự cảm xúc của mình hơn.
- Về tính
cách: Phụ nữ thường cẩn thận, tỷ mỉ, nhẫn nại hơn nam giới
- Về năng lực:
Phụ nữ thể hiện tính khéo léo, nhạy cảm còn nam giới nổi trội hơn trong các
phản ứng.
d. Vai trò của giới tính.
- Giới tạo nên
những cảm xúc đặc biệt khi có sự giao tiếp đặc biệt giữa hai người khác giới,
làm cho con người trở nên ý tứ, tế nhị, duyên dáng hơn hoặc thận trọng hơn
trong quan hệ nam nữ và lịch sự hơn trong giao tiếp
- Giới tính
cũng chi phối những hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, nếp sống.
- Giới
tính làm cho quan hệ giao tiếp giữa hai người khác giới khác hẳn quan hệ giao
tiếp giữa hai người cùng giới, làm cho giữa nam và nữ có những “khoảng cách”
nhất định.